Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II là người Ba Lan, tên thật là
Karol Wojtyla, sinh ngày 18-5-1920 tại ngôi làng nhỏ Galicie, miền Wadowice,
nước Ba Lan. Mẹ ngài qua đời năm 1929, cha là một sĩ quan hưu trí, mất năm
1941. sau đó ngài quyết định đi tu làm linh mục, gia nhập một chủng viện bí mật
tháng 10-1942. trải qua nhiều khó khăn cấm cách, ngài chịu chức linh mục ngày
1-10-1946, rồi được chức Hồng y Adam Sapieha gởi đi Đức Giáo hoàng học
tại đại học Angelicum ở Rôma. Với hai bằng tiến sĩ triết và thần học, ngài trở
về Ba Lan, làm giáo sư tại phân khoa thần học Cracovie, rồi giáo sư ở Đại học
công giáo Lublin. Ngày 28-9-1958 ngài được đức Piô XII bổ nhiệm làm Giám mục
phụ tá Cracovie khi mới 38 tuổi, là Giám mục trẻ nhất Ba Lan. Khi đức Gioan
XXIII triệu tập Công đồng Vaticano II, ngài tham dự vào việc chuẩn bị, đặc biệt
cho lược đồ của hai Hiến chế quan trọng Gaudium et Spec (Vui mừng và Hy vọng)
và Lumen Gen tium (Ánh sáng muôn dân). Ngày 13-1-1964 Đức Phaolô VI bổ nhiệm
ngài làm Tổng Giám mục Cracovie và nâng lên chức Hồng y năm 1967. Sau khi Đức
Hồng y Gioan Phaolô I đột ngột qua đời, Mật tuyển viện nhóm họp để bầu chọn
Giáo hoàng mới, trong những vòng bỏ phiếu đầu, hai ứng cử viên là Hồng y Giuse
Siri và Gioan Benelli nổi bật lên, nhưng không ai thắng đủ số phiếu cần thiết.
Cuối cùng,ngài là gương mặt mới được đề cử và ngài được bầu chọn ngày 16-10,
đăng quang ngày 22-10-1978 với danh hiệu Gioan Phaolô II, như sự tiếp nối ba vị
tiền nhiệm Gioan XXIII, Phaolô VI và Gioan Phaolô I.
Ngài là vị Giáo hoàng đầu tiên
không phải là người Ý kể từ năm 1522 (xem vị Giáo hoàng số 218, đức Adrianô VI
người Hòa Lan 1522-1523). Giáo triều của ngài là một trong những giáo triều dài
nhất trong lịch sử các Giáo hoàng.
Là vị Giáo hoàng rất được yêu
mến bởi các hoạt động mục vụ không mệt mỏi, ngài có sức thu hút mãnh liệt và
rất tự nhiên, nhất là giới trẻ của ngài. Các cuộc du hành của ngài thường quy
tụ hàng trăm ngàn, thậm chí hàng triệu tín đồ, qua đó, kêu gọi mọi người trở
thành chứng tá cho Chúa Kitô bằng đời sống bác ái, hiệp thông huynh đệ để loan
bào Tin mừng. Với hơn 26 năm giáo hoàng người ta đưa ra những con số như sau:
– Ngài đã thực hiện 104 chuyến
thăm mục vụ các nước và 146 chuyến thăm trong nước Ý.
– Là Giám mục Rôma, ngài đã đi
thăm 317 trong số 333 giáo xứ thuộc giáo phận Rôma.
– Đã ban hành 14 Thông điệp, 15
Tông huấn, 11 Tông Hiến, và 45 tông thư.
– Đã chủ sự 51 cuộc lễ phong
thánh cho 482 vị, trong đó có 117 thánh tử đạo Việt Nam ngày 19-6-1988. Ngài
cũng chủ sự 147 lễ phong chân phước cho 1.338 vị, trong đó có chân phước Andrê
Phú Yên của Việt Nam ngày 5-3-2000.
Đã tổ chức 9 hội nghị các Hồng
y, phong 321 hồng y, trong đó có Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận
ngày 21-1-2011 và đức Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn ngày 22-10-2003.
Ngài còn chủ trì 15 thượng Hội đồng Giám mục thế giới.
Ngày 13-5-1981 trong một cuộc
triều yết chung tại quảng trường thánh Phêrô, ngài đã bị một thanh niên hồi
giáo Thổ Nhĩ Kỳ tên là Mohamed Ali Agca mưu sát, nhưng chỉ bị thương. Với lòng
yêu mến, sùng kính đặc biệt đối với Đức Trinh nữ Maria, ngài tin rằng đã thoát
chết là nhờ sự che chở của Đức Mẹ và trên huy hiệu giáo hoàng của ngài, chúng
ta nhìn thấy chữ M, viết tắt của chữ Maria.
Bức hình Đức Giáo hoàng Gioan
phaolô II được Đức Mẹ che chở khi ngài bị ám sát ngày 13-5-1981 tại Quảng
trường thánh Phêrô. Bức ảnh được chụp bởi một cận vệ của ngài. Người ta không
hiểu vì sao, Đức Gioan Phaolô II đã cất giữ bức ảnh này trong suốt thời gian
làm Giáo hoàng của ngài. Mới đây, sau khi điều tra và xác minh, Tòa thánh đã
cho công bố bức ảnh và công nhận đó như một phép lạ.
Trong bức ảnh, chúng ta có thể
nhận thấy nét mặt đau đớn của Đức Giáo hoàng khi ngài bị ám sát. Những
người chứng kiến cho rằng, một người phụ nữ xuất hiên nhanh chóng ôm chầm lấy
Đức thánh Cha khi ngài gục ngã trên chiếc xe chở ngài, rồi sau đó người phụ nữ
nhanh chóng biến mất.
Kẻ sát nhân là Mohamed Ali Agca
đã bị bắt và bị kết án tù chung thân. Còn Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II bị
trọng thương, nhưng ngài đã được Đức Mẹ cứu thoát khỏi cái chết sau một cuộc
phẫu thuật nhiều giờ và đã bình phục.
Ngài viết nhiều tác phẩm về
thần học và tu đức đã thành lập một ủy ban để soạn thảo cuốn Giáo lý chung của
Giáo hội Công giáo vào tháng 10-1986, sách này được chính thức phê chuẩn vào
ngay25-6-1992. Ngài cũng đã công bố Quyển Giáo luật mới ngày 25-1-1983.
Ngài đã thiết lập ngày Quốc tế
giới trẻ vào Chúa nhật Lễ Lá, ngày 15-4-1984. Là vị Giáo hoàng rất quan tâm đến
các hoạt động Đối thoại liên tôn và Đại kết, ngài đã đưa ra sáng kiến về ngày
cầu nguyện chung của các tôn giáo tại Assisi, là vị Giáo hoàng đầu tiên đã thăm
viếng đền thờ Hồi Giáo, thăm hội đường Do Thái Giáo ở Rôma và cũng là vị Giáo
hoàng đầu tiên đi thăm một quốc gia có đa số người theo Chính Thống giáo tại
Rumanie vào năm 1999. Ngài cũng ban hành thông điệp Ut sint unum ngày
25-5-1995, bênh vực sự sống, chống lại việc li dị, phá thai, an tử và hoạt động
không ngừng cho sự công bằng xã hội, tìm kiếm tự do, hòa bình cho nhân loại.
Ngày 1-2-2005 bị bệnh nặng,
ngày 2-4-2005, vào lúc 21h37 phút giờ Rôma, ngài được Chúa gọi về, hưởng thọ 84
tuổi sau hơn 26 năm làm Giáo hoàng với giáo triều dài thứ 3 trong lịch sử Giáo
hội. Thánh lễ an táng ngài diễn ra ngày 8-4-2005 và chỉ sau hơn 2 tháng, ngày
28-6-2005, đức Bênêđictô XVI đã ban phép chuẩn khỏi tuân giữ quy định “sau 5
năm” để chính thức mở án phong chân phước cho ngài.

